Chương Trình Nhạc Chủ đề
Tình Ca – 1970
Nguyễn Đình Toàn
… Tình Ca
Những tiếng nói thiết tha …
Hội Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam - Vietnamese Boat People Memorial Association
12B1 Trung Học Chu Văn An Saigon 1972
Vietnamese author, writer, literature, writings, short essays, Viết Ở Rừng Phong, Công Tử Hà Đông
Thời sự Văn học Nghệ thuật
Trang Thơ Nguyễn Đàm Duy Trung
... Lắm Truyện ...
.....Chỗ Vơ Vẩn
Âm thanh.... trong ... Tịch mịch !!!
Những bài viết .....
ovv
07/12/2015 at 2:17 chiều
Thơ, Nhạc và “Người Tình” của Nguyễn Đình Toàn
Cát Linh, phóng viên RFA
2015-12-06
Nguyễn Đình Toàn
Nguyễn Đình Toàn, một tiếng nói mà cách đây 40 năm, từng được nhà thơ Du Tử Lê gọi là “người tình không chân dung” của thính giả Việt Nam. Đó là một nhạc sĩ, một nhà thơ, một nhà văn, và là một người đã mang đến cho người nghe thời ấy một cách nghe nhạc hoàn toàn mới lạ trên đài phát thanh Sài Gòn mỗi tối Thứ Năm với chương trình “Nhạc chủ đề”.
“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người, bao giờ cũng được bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em, trong tất cả tiếng động ngù ngờ nhất, của cái ngày sung sướng đó, tiếng gió mây thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố. Ngần ấy những tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh, một thưở thanh bình nào,bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm vang lên trong ký ức một mùa hè háo hức, một đêm mưa trở về, gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố.”
Chắc hẳn quí vị thính giả, ai đã lớn lên trong những ngày tháng cũ, đã hít thở mùi vị của khói lửa chiến tranh, tâm hồn được sưởi ấm bằng nền văn học nghệ thuật miền Nam, thì có lẽ đang có cái cảm giác bồi hồi khi nghe lại tiếng nói trầm ấm này, tiếng nói như chỉ đang thủ thỉ cho một người.
Những ngày tháng đó, cứ mỗi tối thứ Năm, trên đài phát thanh Sài Gòn, tiếng nói của chàng Nguyễn Đình Toàn lại vang lên, ru thính giác người nghe vào những ca khúc trữ tình bằng lời nói ngọt ngào, tình tứ về những cuộc tình được ươm mầm, sinh ra, lớn lên, rồi… chết, chết trong bất tử, trên chính mảnh đất quê hương. Mỗi một ca khúc đều được ông đưa đến người nghe bằng lời giới thiệu truyền cảm, tình tứ và nhẹ như tơ. Người ta sẽ tìm thấy trong mỗi lời giới thiệu ấy là một bài thơ, do chính chàng viết lên và đưa họ đi vào ca khúc chủ đề.
“…Tình chúng ta bắt đầu như mùa thu trở lại. Khi những chùm hoa thạch thảo ngát hương trên lối đi quen. Mùa thu bắt đầu trên dòng sông bát ngát. Mùa thu nhuộm vàng những cánh rừng. Mùa thu phơi áo mơ phai, chiều võ vàng với xác hoa trên hình bướm…”
Từ chương trình “Nhạc chủ đề” cùng lời giới thiệu như thơ của Nguyễn Đình Toàn, các ca khúc tiền chiến cùng những tiếng hát ngày đó đã ru ấm giấc ngủ cho biết bao trái tim người nghe trong thời loạn ly.
Lúc đó, giới yêu văn học biết đến Nguyễn Đình Toàn vừa là một nhà văn với tác phẩm nổi tiếng “Áo mơ phai”, một tác phẩm đoạt Giải thưởng văn chương. Giới yêu thơ thời 60 thì say mê nhân vật Phạm Thái và Trương Quỳnh Như trong bài thơ ‘Khúc ca Phạm Thái”, một bài thơ phổ thành kịch thơ, nằm trong tập thơ “Mật đắng” mà sau này, vì một lý do riêng, ông đã đốt hết. Người yêu nhạc thì sẽ yêu cái tên Nguyễn Đình Toàn vì những bản tình ca nặng lòng với quê hương
“Mai tôi đi, tôi đi vào sương đêm
Sương rất độc, tẩm vào người nỗi chết
Quê hương ta sống chia giòng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin…”(Mai tôi đi)
Đi, nhưng đi đâu? Tình, là tình nào?
Đi vào sương đêm; đi về nơi sẽ đến; đi vì máu đã chảy ngoài tim.
Chàng, người nghệ sĩ Nguyễn Đình Toàn, khi phải tách lìa ra khỏi quê hương mình, mang theo nỗi sợ hãi khôn cùng vì đối diện với sương đêm, nỗi chết, hay sợ hãi phải dứt bỏ một cái gì rất thiêng liêng?
“Cả hai. Khi sống với cảm giác ấy, tôi có cảm tưởng như mình đứng không vững nữa, tức là mình chênh vênh trên 1 cái gì đó. Từ đó trở đi chắc là mình đứng không vững nữa, mà quả thật là như vậy.”
Trong giây phút ngột ngạt và bấn loạn nhất, phải lựa chọn giữa đi và ở, ông từng nói với bằng hữu của mình rằng “người nghệ sĩ là cuốn rốn của quê hương. Nếu tách lìa nhau thì người nghệ sĩ không còn là nghệ sĩ nữa.” 40 năm trôi qua, nghệ nghệ sĩ ấy vẫn chưa nguôi ngoai, vẫn gọi mình là người tạm trú trên quê người.
“Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ như vậy. Như cái cây mà bị bứng ra khỏi đất của nó đó, thì mang sang trồng sang chỗ nào khác thì nó cũng có thể sống được, nhưng hoa trái của nó sẽ không còn mang cái vị của nó nữa. thành ra, khi người ta ước mơ người ta đi thì có nghĩa là cái đất nó đã chua rồi. Chỉ có đi thì may ra còn nuôi được, chứ tình cảm trong đó thì đã chết hết.”
Đi, để giữ mãi người tình ấy trong sâu thẳm một góc cuộc đời mình. Ông đi, để nhớ mãi những đêm hè, quán nhạc. Ông đi, để còn có thể gọi tên người tình của mình, người tình mà ông gọi là Sài Gòn.
“Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên
như giòng sông nước quẩn quanh buồn
như người đi cách mặt xa lòng
ta hỏi thầm em có nhớ không
Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao
trong niềm vui tiếng hỏi câu chào
sáng đời tươi thắm vạn sắc màu
nay còn gì đâu…” (Sài Gòn niềm nhớ không tên)
“Tôi gọi là đất đã chua cành đã chết rồi, không có cây nào mọc được nữa rồi. chỉ có một giống nào đó cấy với nhau thì nó mới mọc được. Tôi không viết văn nữa cũng là vì vậy.”
“Nó giống như người không có chỗ trú thân. Tách rời ra khỏi quê hương, từ bỏ quê hương thật của mình thì chỗ khác không thể nào thay thế được đâu.”
“Rồi mai đây em có quay về nơi cũ
Mang trong tim mình những ước mơ đã nhoà xưa
Làm sao khi tóc tat hay màu lòng ta vẫn
Tìm lại được bao hình bóng đã phai mờ
Đêm có mây sầu đưa
Trăng giấu đi tuổi thơ
Ven con sông dài
Quê ta thiu ngủ
Đêm nào đó ta đứng trông xa ngọn đèn lu
Thắp trong sương mù dáng ai ngồi co ro
Như quê hương mình thu nhỏ
Để người viễn xứ mang cho vừa…” (Quê hương thu nhỏ)
Người ta nhìn thấy đâu đó trong khắp các lời ca của ông là hiện thân của người tình và quê hương. Hai cuộc tình ấy hoà lẫn, hiện diện dung hoà trong một cuộc tình lớn. Tình yêu nở hoa khi có em, có anh, có mái trường xưa nhiều kỷ niệm, có con đường rợp hàng cây phượng vĩ. Nhưng rồi, bên cạnh hàng cây ấy giờ có thêm hai hàng nước mắt khóc rưng rưng, khi tình yêu đó, giờ xa nhau như đời xa cõi chết.
“Em còn yêu anh còn yêu anh
Cây còn xanh còn tươi đầy kỉ niệm
Mái trường xưa mỗi mùa phượng đến
Ve còn kêu vang, ve còn kêu vang
Đường ta đi vẫn 2 hàng lá biếc
Có 2 hàng nước mắt khóc rưng rưng
Nơi em về nghe lạnh bốn mùa đông
Cho hồn anh đủ bốn mùa rét mướt
Ta đã xa nhau như đời xa cõi chết
Có bao giờ ta thấy lại nhau không…” (Em còn yêu anh)
“Tình yêu giữa hai người đàn ông và đàn bà, hay con trai và con gái với nhau, thu nhỏ là tình yêu, nhưng phóng lớn lên nó là tình hoài hương đó.”
Có phải tình yêu quê hương luôn lớn hơn, vĩ đại hơn tình yêu đôi lứa? Không! Nguyễn Đình Toàn không nói thế. Dù ông mang những hình ảnh đơn sơ nhất trên quê hương mình gửi vào tình yêu. Dù ông nghe được cả trong tình yêu mình là tiếng mưa, tiếng sương rơi trên mặt hồ, những âm thanh quê hương mà chỉ có thể nhắm mắt lại và nghe bằng tâm và trí. Thì ông và tình yêu của mình cũng trở nên bơ vơ khi đất nước không còn nữa.
“Tôi không thấy tôi tách rời ra khỏi cái đó được. Khi yêu là sống từng phút, mà cái phút ấy phải có chỗ trụ là đất nước. Khi mất đất nước thì tình yêu ấy bơ vơ lắm.”
“Mưa ơi mưa, mưa từ vực sâu…
Hay mưa rơi từ đỉnh trời đau
Mưa có mong người sau, thương yêu nhau bền lâu,
Thì kiếp này còn gì nữa đâu…” (Mưa khuya)
Ông nhìn tình yêu trong cõi đời này như một phép hoán vị. Có đau khổ, thì mới có hạnh phúc. Trong nhạc của ông, tình yêu là đồng nghĩa với đau khổ. Nếu không có đau khổ thì sẽ không biết thế nào là hạnh phúc.
“Ôi son trên môi còn in dấu người
Và tóc như dáo chia tình đôi
Đêm hay gương soi nỗi buồn xa ấy
Yêu người đã bỏ đời vui…”(Dạ khúc)
Đến với âm nhạc của Nguyễn Đình Toàn, hình như ai cũng nhìn thấy một hình ảnh thân quen nào đó đã đi thoáng qua đời mình. Có thể đó là tình yêu đầu tiên, mà cũng có thể là cuối cùng. Nhưng với riêng ông, tình yêu chính là quê hương.
Nguồn: Ban Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do RFA
ovv
17/12/2016 at 11:26 chiều
Nữ Ca sĩ Quỳnh Giao viết về Văn sĩ Nguyễn Đình Toàn:
Ngày còn bé, Nguyễn Ðình Toàn không biết đánh đáo.
toan2Ông đánh mạt chược thuộc loại đáo để và ăn nói còn đáo để hơn trên bàn mạt chược, nhưng Quỳnh Giao nghi là ông không biết đánh đáo. Hoặc có lẽ không thèm đánh đáo. Ở tuổi ấu thơ, Nguyễn Ðình Toàn ham mê chuyện khác, để ý đến chuyện khác, chuyện thi ca chẳng hạn, thơ và nhạc.
Người ta có thể kết luận như trên khi đọc tập bút ký của ông viết về 190 tác giả, có tựa đề là “Bông Hồng Tạ Ơn” vừa được ra mắt tại báo quán Người Việt chiều 28 Tháng Mười vừa qua. Quỳnh Giao không viết về ông trước ngày đó như để giới thiệu sinh hoạt này.
Nguyễn Ðình Toàn là nghệ sĩ không cần được giới thiệu.
Nguyễn Ðình Toàn có lẽ không đánh đáo với chúng bạn đồng tuổi vì ông mải nhìn mây, nghe nhạc, đọc văn và tìm hiểu về thơ. Không vậy, ông đã chẳng có một ký ức đầy ắp về những nghệ sĩ đã nổi danh từ thập niên 1950. Ông biết về họ rất tường tận, trước khi chính mình bước vào thế giới đó.
Giới yêu văn học thì biết Nguyễn Ðình Toàn qua các tác phẩm văn chương. Ông là một nhà văn nổi tiếng, có độc giả và từng được Giải Thưởng Văn Chương với Áo Mơ Phai, tác phẩm làm ông bị khổ sở không ít sau năm 1975.
Ông còn khổ sở hơn vì không chịu cúi đầu, vẫn cứ ngang ngạnh khi gặp cảnh tù đày.
Sau khi được thả ra, ông còn ngang ngạnh (dùng chữ hiên ngang tất sẽ làm ông khó chịu!) và khi chế độ trong nước thay đổi, xin tái bản lại Áo Mơ Phai, ông vẫn ngang ngạnh: “Các anh muốn làm gì chẳng được, nhưng đã hỏi tôi khi muốn tái bản thì tôi chỉ xin các anh ghi vào lời tựa lý do vì sao đã kết án tác phẩm và bỏ tù tác giả!” Ðược tái bản sách, nhiều người rất thích và đành nhịn. Nguyễn Ðình Toàn lại có cách từ chối đáo để như vậy thì… ai mà nhịn được!
Giới yêu thơ cũng từng mê thơ Nguyễn Ðình Toàn, đã được đọc lại còn được nghe.
Quỳnh Giao xin nói về chuyện nghe thơ này.
Thời ấy, vào thập niên 1960 trở về sau, các ban tân nhạc trên đài phát thanh đều có xướng ngôn viên của đài hoặc chính các ca sĩ tự giới thiệu lấy trước khi trình bày.
Và người ta không có lời giới thiệu (tiền thân của giới EmXi MC thời nay) để cho tác phẩm một cái mũ, một cái “châpeau” dẫn vào tác phẩm và nghệ sĩ trình bày. Ngoại lệ có tính chất tiên phong là chương trình “Tiếng Nhạc Tâm Tình” của Anh Ngọc, do Mai Thảo viết châpeau dẫn thính giả vào nhạc. Ông có cách hành văn rất tây, với lối dùng chữ mới lạ, dễ “bắt tai” thính giả. Hàng tuần, thính giả chờ đón để được nghe các ca khúc nghệ thuật mà người hát, hòa âm, và cả lời giới thiệu đều trau chuốt bóng bảy. Người đọc những dòng giới thiệu thường là Anh Ngọc, Mai Thảo, đôi khi Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương và cả Quỳnh Giao.
Người không đội mũ nhưng gắn hoa và thổi mây lên từng ca khúc nghệ thuật là Nguyễn Ðình Toàn, với chương trình gọi là “Nhạc chủ đề”.
Ông viết lời giới thiệu như người ta làm thơ. Văn phong của ông cổ điển hơn, khác với lối viết của Mai Thảo hay lời nhạc Trịnh Công Sơn, nhưng là một loại thơ dẫn vào nhạc.
Chương trình ăn khách và thực sự tạo ra một trào lưu chính là nhờ giọng nói truyền cảm, như lời thủ thỉ, của Nguyễn Ðình Toàn. Ông dẫn thính giả vào nhạc bằng câu “Hỡi em yêu dấu” như chỉ nói với một người. Qua làn sóng điện người nghe thấy ông thầm thì với riêng mình về những cảm xúc do ca Ðáng lẽ, chương trình ấy phải được gọi là “Dẫn em vào nhạc” mới phải, nhưng thời ấy chúng ta chưa dám táo bạo như thế! Qua cách nói… “hỡi em yêu dấu”, rõ là Nguyễn Ðình Toàn chỉ nói với phái đẹp. Vào quãng thời gian ấy, ông còn quá trẻ để gọi thính giả nam phái là “em”!
Mà ông không cao ngạo như Ðinh Hùng khi xưng là “ta” với người đẹp, ông mộc mạc nhũn nhặn xưng là “tôi”.
Thế mới chết… chị Thu Hồng!
Nhớ lại thì nếu Tiếng Nhạc Tâm Tình của Anh Ngọc gồm những giọng hát thượng thặng của thời đó trình bày, được chính ông chọn lọc và bầy bán giới hạn tại cửa hàng Au Printemps gần thương xá Tax, đã dẫn tới một ngành sinh hoạt mới là các trung tâm thực hiện băng nhạc, thì chương trình Nhạc Chủ Ðề của Nguyễn Ðình Toàn đã là nơi báo hiệu hào quang lên những ca sĩ sau này là tên tuổi lẫy lừng, như Sĩ Phú, Khánh Ly, Lệ Thu…
Phải nói rằng nhiều ca sĩ thường xuyên cộng tác với đài phát thanh hoặc xuất thân từ các gia đình nghệ sĩ thì đã được… “lăng xê” từ trước và họ thực sự là những người chuyên nghiệp vì sự đòi hỏi của các đài phát thanh. Chương trình của Nguyễn Ðình Toàn lại khác.
Ông mời những giọng hát tài tử trong tinh thần “hát cho vui”, hát vì nghệ thuật.
Luật gia Khuất Duy Trác thuộc thành phần ấy và đóng góp rất nhiều cho chương trình này. Một thí dụ khác là kỹ sư địa chất Võ Anh Tuấn – người tham dự việc tìm ra mỏ dầu đầu tiên – được mời hát Dạ Khúc của Nguyễn Mỹ Ca với giọng Nam như Trần Văn Trạch. Theo Quỳnh Giao, bài thành công nhất của Võ Anh Tuấn là Giọt Mưa Thu của Ðặng Thế Phong. Miền Nam không có mưa Thu Hà Nội, Nguyễn Ðình Toàn khơi dậy Mùa Thu ấy trong tâm cảnh của chúng ta ở miền Nam qua cách trình bày của Võ Anh Tuấn.
Không có cái tai thẩm âm, ai lại dám làm điều ngược ngạo ấy vì thời đó và sau này, hát theo giọng Bắc mới được coi là hay! Cũng qua chương trình Nguyễn Ðình Toàn, mà Khánh Ly, Lệ Thu, Duy Trác hay Sĩ Phú, v.v… đã là những tiếng hát vượt không gian. Ra khỏi các sân khấu thành phố mà vang vọng khắp bốn vùng chiến thuật và tạo ra một làn sóng ngưỡng mộ từ đó không nguôi. Ngay cả những ca khúc đầu tiên của Trịnh Công Sơn cũng đã như cánh vạc bay, và bay mãi, là từ chương trình Nhạc Chủ Ðề, qua tiếng hát Khánh Ly và lời thủ thỉ của Nguyễn Ðình Toàn.
“Những bản tình ca không có hạnh phúc” qua tiếng hát của “nàng góa phụ của cuộc chiến này” là cách Nguyễn Ðình Toàn giới thiệu ca khúc Trịnh Công Sơn và Khánh Ly.
Có MC nào của đời nay làm chúng ta xúc động như vậy không?
Nguyễn Ðình Toàn là nhà văn, là thi sĩ và ông giới thiệu nhạc bằng cảm nhận của nhà thơ.
Ông cũng là nhạc sĩ đã sáng tác rất nhiều trong những năm về sau nhưng tác phẩm bị trùm lấp trong biến cố 1975. Khi ông ra đến ngoài này, sự thẩm âm của thiên hạ đã thay đổi. Người ta “hát giọng răng” (nói theo lối ví von của Phạm Duy, vì cô ca sĩ có hàm răng khấp khểnh) và giới thiệu ca khúc bằng vũ khúc…
Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Ðình Toàn chưa cho ra mắt một tác phẩm đáng lẽ phải có tên là “Dẫn em vào nhạc Nguyễn Ðình Toàn”, mà lại viết về những người nghệ sĩ ông sợ là chúng ta sẽ quên. Ông gửi tới họ những bông hồng tạ ơn qua tài năng cố hữu của ông, là dùng thơ dẫn người đọc vào ngôi vườn hoa của người khác.
Khi viết bài này, trong dư âm của một chương trình nhạc chủ đề của Nguyễn Ðình Toàn, (chủ đề cuốn băng là “tình ca”) Quỳnh Giao bồi hồi nghĩ là “áo mơ chưa hề phai” trong tâm khảm ông.
Nguyễn Ðình Toàn chỉ sợ những kỷ niệm cần trân quý của chúng ta bị phai lạt dần… Ông tạo ra một không khí tình cảm dịu dàng điệu nghệ để người nghe chuẩn bị đón nhận…
Lời thủ thỉ ấy đẹp như thơ làm thính giả phái nữ thấy lòng mình chùng xuống.
QUỲNH GIAO
Nguồn :Hoàng Hải Thủy
ovv
22/01/2018 at 5:49 chiều
Chiều cuối năm, thăm tác giả ‘Áo Mơ Phai’
Đinh Quang Anh Thái
“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó: một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu ngờ, anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của những ngày sung sướng đó. Tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố, ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thửa thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa Hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về. Gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố.”
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn mở đầu như thế, trong chương trình “Nhạc Chủ Đề Tình Ca Quê Hương” do anh phụ trách hàng tuần vào mỗi tối Thứ Năm trên làn sóng Đài Phát Thanh Sài Gòn trước năm 1975.
Giọng Bắc, sang, trầm, buồn, tác giả “Áo Mơ Phai” đã làm say đắm lòng người với hàng trăm buổi tối “Nhạc Chủ Đề”. Thuở ấy, nhiều người, bận gì thì bận, tối Thứ Năm cũng phải về để bắt kịp Nguyễn Đình Toàn:“Chiều đang xuống trên đường về, mệt mỏi giăng mắc quanh tôi, như vòng tay của tình yêu quyến rũ. Sương lam buông kín trên ngọn cây như khói của buổi chiều đang thắp hương cầu nguyện. Tôi yêu em như con ong say mật ngã vào lòng bông hoa. Tình yêu giống như cái chết nuốt trôi tất cả. Trong đám cỏ may, tiếng gió nào đang khóc và trên trời, những đám mây bay giống như những kẻ bại vong. Chiều trở về trong nỗi tiếc thương. Lòng ta ta không hiểu nữa là ai thấu hiểu. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả. Đêm bắt đầu trải dài dưới bước chân đi, sao trên cao nín thở đếm thời gian, trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt trôi tất cả.”
oOo
Một buổi chiều cuối năm, đến thăm tác giả “Áo Mơ Phai”.
Bước ra khỏi xe, ngước nhìn lên căn nhà trọ, đã thấy bóng anh hắt qua khung cửa sổ. Anh nhìn xuống, tôi đoan chắc là anh chỉ thấy thấp thoáng bóng người từ xa. Mắt anh đã mờ, vì khói bụi cuộc đời – và cả tình người – kể từ ngày thoát khỏi những năm tháng nghiệt ngã trong nhà tù; rồi đặt chân đến Mỹ.
Căn nhà trọ một phòng u ám, anh đứng dậy mở cửa, lưng như trĩu xuống vì sức nặng cuộc đời, lao chao như vừa thoát ra khỏi cái bóng của ngọn đèn vàng vọt trên trần chiếu xuống bàn ăn.
Trở lại chỗ ngồi cố hữu nơi cửa sổ, giọng anh yếu, nhưng vẫn còn hơi hướng Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối Thứ Năm ngày nào. Anh bảo, chán thật, thế mà đã ngoài “tám bó.” Nghe mà giật mình, thoáng chốc anh đã bước vào tuổi 82.
Nhớ những buổi tối Thứ Sáu vừa ra khỏi tù năm 1984, trên căn gác nhà bác Dzoãn Quốc Sĩ, bác gái cho ăn bữa cơm đạm bạc, có anh Nguyễn Đình Toàn, anh Thanh Tâm Tuyền và anh Duy Trác. Chỉ là kẻ hậu bối hàng con cháu, tôi ngồi hóng chuyện những tên tuổi lẫy lừng của làng văn, và học được vô số điều trân quý. Giá lúc ấy anh Toàn đồng ý cùng tôi đào thoát và may mắn như chuyến đi của tôi ít tháng sau đó, anh đã có thể chữa được bệnh mắt. Hỏi anh sao nhất quyết ở lại, anh bảo, nghệ sĩ như cái nhau của thai nhi và quê hương như bà mẹ, một khi cái nhau bị cắt rời khỏi cuống là lúc nguồn nuôi dưỡng trực tiếp đứa bé không còn nữa.
Ngày chia tay anh ở Sài Gòn, thoắt cái đã hơn 30 năm. Rốt cuộc anh cũng đành phải ra đi. Hỏi anh, quê hương trong anh bây giờ ra sao, anh nói “tận cùng của tình yêu chính là nỗi nhớ quê nhà; đôi lứa là quê nhà; hạnh phúc lẫn khổ đau cũng là quê nhà,” rồi anh cho nghe một đoạn anh từng đọc năm nào nơi quê hương giờ đây đã cách xa nửa vòng trái đất: “Ngày đã tàn nhưng mưa chẳng chịu ngừng giây lát, chiều âm u như giấc ngủ không yên. Những cành tre nào lạ ngọt dưới những giọt nước u sầu. Quê hương ở phương nào trong bốn phương mù mịt. Tiếng chim kêu buồn trên những cành cây khô. Ngày sắp tàn cùng với cuộc tình đã rũ áo ra đi. Tình yêu rực sáng như trân châu trong bóng mờ của trái tim ẩn kín đã tắt cùng với ánh sáng thảm thương của một ngày Thu buồn nhưng cũng đủ làm vọng lên trong ta những giây phút hoan lạc của một thời nơi quê nhà yêu dấu. Bên bếp đỏ tro than, em hãy hơ nóng hai bàn tay rét mướt. Ngày gần nhau đã vĩnh viễn xa rồi. Liệu có kiếp nào mai sau cho chúng ta những ngày đầm ấm?”
Hỏi anh giờ này anh mong gì, anh nói, chả biết mình mong gì nữa, “ngày hai bữa nấu cơm cho vợ ăn là đủ hết ngày rồi”, còn mong gì nữa.
Chị Hồng, vợ anh đau bệnh. Mà chính bản thân anh cũng nào khá hơn, anh cũng đã “làm bạn” với tật bệnh từ nhiều năm nay.
Tôi gợi lại anh về “Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn”, anh nói, chắc chẳng còn bao người nhớ đến; thế hệ trẻ bây giờ, khó cho họ để cảm được cái cảm của một thời vang bóng đó. Tôi nói với anh, dù thế nào chăng nữa thì vẫn phải “gìn vàng giữ ngọc”, vì đó là dấu ấn trong lòng nhiều người trong một giai đoạn tan nát nhất của đất nước.
Hai anh em ngồi với nhau, có những lúc thinh lặng không một lời. Tôi cảm được nỗi cô quạnh đang bủa vây anh. Tôi nói, anh cho em nghe thêm đi, những lời thì thầm anh vẫn cất lên vào những tối Thứ Năm xưa cũ.
“Tình chúng ta bắt đầu vào một Thu rất xa xôi, khi những chùm Hoa Thạch Thảo ngát hương trên những lối đi quanh. Mùa Thu bắt đầu trên giòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cách rừng. Mùa Thu với áo mơ phai, chiều võ vàng, với xác hoa trên mình bướm. Em đã đến với anh như đám mây Tháng Bảy nặng mưa rào. Em hãy đừng quên, dù bây giờ mùa Thu đã chết. Những mùa Thu khác có thể trở về nhưng mùa Thu của chúng ta đã chết. Anh không bào giờ quên những ngày sung sướng, hạnh phúc đó. Đừng quên nhau, dù đôi chúng ta chẳng còn tao phùng được nữa.”
“Hãy cầu nguyện cho tình ta dù một ngày tình đã vỡ tan. Cầu nguyện cho sự yên vui hằng cửu của mỗi người. Cầu nguyện cho sự tình cờ sầu hận đã đưa chúng ta đến với nhau. Khi em bước ra khỏi đời, anh chỉ còn hai bàn tay không với những chuỗi ngày cô quạnh. Đời có người khôn ngoan, có kẻ dại khờ. Có những đôi mắt cười, có những đôi mắt khóc. Riêng trong mắt anh, có điều gì như đang tan trong lòng. Em làm sao hiểu được từ ngày em bỏ đi, anh đã rã mục dưới gánh nặng của trái tim. Có những người tiến xa trên đường đi, có những kẻ lẽo đẽo theo sau. Có người tự do, có người tù túng. Riêng anh đứng lại rã rời dưới gánh nặng u buồn của trái tim mình.”
“Em có nhìn thấy mây giăng kín buổi chiều, nhìn thấy giòng sông trôi. Ngày đã muộn và con thuyền đã theo sóng trôi xa. Em có nhìn thấy mây giăng kín bầu trời, nhớ lại những ngày chúng ta còn gần nhau. Những trận gió từ phương Nam thổi về lòng anh đầy nỗi nhớ nhung. Anh không thể nào nhớ chúng ta đã xa nhau giữa mùa Xuân hay mùa Hè. Bởi vì mắt anh đã tràn ngập sương lam mỗi lần nhớ tới em, mỗi lần anh dõi theo chân trời nơi anh tưởng rằng có em. Ôi! ngôi mộ của bình minh nơi em cư ngụ. Anh muốn tan thành giòng nước cuốn trôi đến nơi mênh mông cô quạnh ấy. Anh muốn được cùng em tan trong ánh sáng rạng rỡ của ngày bắt đầu, và được cùng em, hòa trong ánh chiêu dương khi chiều trở lại.”
Khói thuốc tỏa ra từ cái tẩu, anh chìm trong hoài niệm và như đang bềnh bồng trên đôi cánh chim bay về cố hương. Anh bảo, để anh đọc cho chú nghe bài thơ anh viết ở Sài Gòn năm 1984. Bài “Tro Tàn”:
Ta có thở khói thương nhau
Tình cũng như nhang tàn
Ta còn nương náu trong đời không bao lâu
Lòng có đau thì cũng như nắng qua chiều
Thôi cũng nhẹ
Ta yêu nhau trong nghèo khó
Khi quê hương tàn phá
Được mấy ngày vui trong đời
Tóc biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta xa nhau vào lúc xa đời
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Cứ coi là mất coi là hết
Lật ngửa bàn tay mà cắt dây
Dẫu cho còn có khi nào nữa
Gặp lại được nhau cũng muộn rồi
Đừng hỏi tình xa bao lâu tình sẽ lạ
Và hỏi người chia xa nhau lòng có sợ
Gương lạnh bóng mờ
Còn một phần ba cây nhang đợi cháy vội
Đội một hòn than chôn chân sầu đứng đợi
Tro tàn rụng rơi.
***
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Ừ, anh nói, cũng đã sắp tới lúc “bóng bỏ theo người”.
Nhìn những thùng sách chất chồng trong căn phòng hẹp của anh, tôi hỏi, “Nguyễn Đình Toàn tiểu thuyết 1 và 2” có được độc giả chú tâm không, anh cười nhưng không dấu được chua chát: “cứ xem đây là lần in cuối cùng dành tặng bằng hữu”.
Ngồi chơi với anh rồi cũng phải về. Anh đóng cánh cửa sau lưng tôi và nói vói theo: “Đã thấy ta gần với cái xa.”
Câu thơ này, anh đã đọc cho tôi nghe hôm đám tang Nhạc sĩ Nhật Ngân buổi sáng Mùng Sáu Tết năm nào.
Theo đoàn người sau quan tài, đi ngang nơi an nghỉ của Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, anh Toàn ngồi xuống bãi cỏ trước mộ phần anh Yến, đọc cho nghe trọn bài thơ “Đã Nghe”:
Đã nghe đời xa ta
Người xa ta
Tình xa ta
Như cây khô trút dần hết lá
Đường đang đi bỗng như
Chập chờn có sóng đưa
Xô dồn
Trong một lối về
Đã thấy quanh ta đời quạnh quẽ
Những tiếng xôn xao im dần đi
Đời một phía ta trôi về một phía
Có phải ta mù dở hay sương che
Những bóng hình xưa
Nhập vào trong ước mơ
Giờ cũng bay ra làm gió
Ta có quên đâu
Nhưng nhìn xem cũng lạ
Hoa ngỡ như không còn là hoa nữa
Những mặt người ta giấu trong ta
Dấu mốc đời qua
cười băng giá
Ta cũng không mong quay lại nữa
Trăng thoắt rơi ngang trên đường đi
Ta bỗng nghe ra bằng thịt da
Đã thấy ta gần với cái xa
Ô hay đất đá nào rơi lở
Hay tự lòng ta lấp lối về.
Rời căn phòng trọ của tác giả “Áo Mơ Phai”, ngoái lại nhìn thấy dáng anh xiêu đổ.
Đêm California se lạnh, trong đầu bỗng vang lên câu cuối của bài thơ: “Hay tự lòng ta lấp lối về”.
oOo
Nguyễn Đình Toàn sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, bên bờ sông Hồng, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, Nguyễn Đình Toàn bắt đầu viết văn làm thơ, viết kịch, viết nhạc, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học (trong nhiều năm, Nguyễn Đình Toàn phụ giúp Trần Phong Giao tuyển chọn thơ và truyện cho báo Văn); Nguyễn Đình Toàn cũng viết feuilleton cho các nhật báo Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến; biên tập viên đài phát thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trong những năm 1970s. Sau 1975, cùng chung số phận như mọi văn nghệ sĩ Miền Nam, Nguyễn Đình Toàn bị bắt hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. Sang Mỹ định cư từ cuối năm 1998, Nguyễn Đình Toàn và vợ, chị Thu Hồng cùng phụ trách chương trình Đọc Sách cho đài phát thanh VOA, Nguyễn Đình Toàn còn viết cho tuần báo Việt Tide mục Văn Học Nghệ Thuật của nhà văn Nhật Tiến cho tới khi nghỉ hưu. Gia đình Nguyễn Đình Toàn hiện sống tại Nam California.
Tác phẩm đã xuất bản:
Văn: Chị Em Hải (truyện, Nxb Tự Do 1961); Những Kẻ Đứng Bên Lề (truyện, Nxb Giao Điểm 1974); Con Đường (truyện, Nxb Giao Điểm 1965); Ngày Tháng (truyện, Nxb An Tiêm 1968); Phía Ngoài (tập truyện, viết chung với Huỳnh Phan Anh, Nxb Hồng Đức 1969); Đêm Hè (truyện, Nxb Hiện Đại 1970); Giờ Ra Chơi (truyện, Nxb Khai Phóng 1970); Đêm Lãng Quên (Nxb Tân Văn 1970); Không Một Ai (truyện, Nxb Hiện Đại 1971); Thành Phố (truyện, Nxb Kẻ Sĩ 1971); Đám Cháy (tập truyện, Nxb Tân Văn 1971); Tro Than (truyện, Nxb Đồng Nai 1972); Áo Mơ Phai (truyện, Nxb Nguyễn Đình Vượng 1972); Đồng Cỏ (truyện, Nxb Đồng Dao/ Úc châu 1994).
Thơ: Mật Đắng (thơ, Nxb Huyền Trân 1962).
Kịch: các vở kịch của Nguyễn Đình Toàn đều là kịch truyền thanh, trừ Cơn Mưa được trích đăng trong bộ môn Kịch Văn Học Miền Nam của Võ Phiến, những bản thảo khác đều thất lạc.
Nhạc: Hiên Cúc Vàng (tập nhạc, 1999); Tôi Muốn Nói Với Em (tập nhạc, 2001); Mưa Trên Cây Hoàng Lan (tập nhạc, 2002).
Ký: Bông Hồng Tạ Ơn I & II (Nxb Đêm Trắng 2006, 2012).
Áo Mơ Phai đoạt giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 1973.
(Trích “Nguyễn Đình Toàn Từ Đồng Cỏ Tới Áo Mơ Phai” trong tác phẩm “Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật Và Văn Hóa” của Nhà văn Ngô Thế Vinh.)
Đinh Quang Anh Thái
Tháng 12, 2017
Nguồn: VOA Tiếng Việt